“Like Moodle, Microsoft Office is prevalent in classrooms around the world. In fact, more than 90 percent of teachers and students worldwide use Office. So we explored ways to improve how educators can intuitively and efficiently use the two products together. What we developed is simple. The Microsoft Office Add-in for Moodle provides educators an easy way to find, open, and save their Microsoft Office files housed in Moodle. It’s free and available for download at www.educationlabs.com,” revealed Jon Perera, General Manager, Education Products Group. Office Add-in for Moodle has been tested against Moodle 1.8-1.9, namely the versions that Microsoft recommends teachers use in concert with Office 2003 and 2007. Following installation, users will be able to find the Open from Moodle and Save to Moodle options under the File menu in their productivity suite components. Without the help of Office Add-in for Moodle, teachers leveraging both Office and Moodle have to perform a range of back and forth steps in order to complete basic tasks. The add-in significantly simplifies work for users relying on both Office and Moodle. “This tool was created by Microsoft’s Education Labs team. That team was established in July 2009 to quickly create prototypes of new tools, applications, and services that showcase how Microsoft technologies can meet the needs of schools, teachers and students. Sometimes we create or use brand new technologies. Other times we integrate our technologies with others’, including industry standards or even competitive technologies. For example our Education Labs team recently released applications to help teach chemistry, make digital flashcards to help students learn concepts, and also introduced the Microsoft Live Services Plug-in for Moodle,” Perera added. Office Add-in for Moodle is available for download here. Sources: http://news.softpedia.com/news/Bridge-Office-and-Moodle-via-New-Add-in-from-Microsoft-139320.shtml |
Thứ Bảy, 10 tháng 4, 2010
Bridge Office and Moodle via New Add-in from Microsoft
Thứ Hai, 5 tháng 4, 2010
5 xu hướng hàng đầu trong quản trị nguồn nhân lực
Hơn một thập kỷ qua, bộ mặt của ngành Quản trị Nguồn nhân lực (Human Resources – HR) đã thay đổi đáng kể. Từ một bộ phận dường như với mức ưu tiên thấp, giờ đây HR đã trở thành một phần không thể thiếu đối với mọi tổ chức bởi chính chức năng then chốt của nó. Ngày nay, HR hiện thân cho tất cả những hiểu biết về cách thức duy trì môi trường làm việc hiệu quả và tích cực nào là tốt cho doanh nghiệp.
Giờ đây HR đã trở thành một phần không thể thiếu đối với mọi tổ chức bởi chính chức năng then chốt của nó. |
Việc thực hiện kịch bản mang nhiều tính lý tưởng này có vẻ khó khăn bởi nhiều tổ chức không hiểu cần phải làm gì. Vậy thì làm sao các doanh nghiệp ngày nay có thể quản lý được sự thay đổi này? Câu trả lời hết sức đơn giản: đó là hãy ứng dụng những thực tiễn về HR tốt nhất và thúc đẩy công nghệ HR.
Dù có xảy ra tình trạng suy thoái kinh tế hay không thì sự đổi mới trong công nghệ HR vẫn tiếp tục phát triển và thay thế cách thức mà mọi người thường làm. Công nghệ này ảnh hưởng tới tất cả chúng ta – trong cả cuộc sống cá nhân cũng như ở nơi làm việc.
Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải tiếp tục nắm bắt công nghệ theo hướng thu được những công cụ sẽ giúp tạo ra sự truyền đạt và hợp tác tốt hơn trong khả năng làm việc của mỗi người. Công nghệ, chẳng hạn như kết nối mạng xã hội, điện thoại di động... giúp con người kết nối với nhau trong môi trường làm việc của mình và tiếp sức cho tiềm năng về sự sáng tạo cùng năng suất làm việc được nâng cao.
Nhưng những xu hướng hiện nay có vấn đề gì không khi mục đích quan trọng nhất vẫn là: các tổ chức cần ghi nhớ những yêu cầu về nguồn lực lao động cả ở hiện tại và tương lai trước khi chuyển sang một giải pháp mới.
Giờ đây, chúng ta đang tiếp cận một thập kỷ mới với năm xu hướng hàng đầu mà ai cũng tin rằng chúng đang mang đến ảnh hưởng lớn nhất trong đấu trường HR.
• Quản lý nhân tài.
• Kết nối mạng xã hội.
• Thuê gia công bên ngoài.
• Sử dụng phần mềm như dịch vụ – (software as a service – SaaS).
• Mua bán và sáp nhập – (mergers and acquisitions – M&As).
1. Quản lý nhân tài
Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải tiếp tục nắm bắt công nghệ theo hướng thu được những công cụ sẽ giúp tạo ra sự truyền đạt và hợp tác tốt hơn trong khả năng làm việc của mỗi người. Công nghệ, chẳng hạn như kết nối mạng xã hội, điện thoại di động... giúp con người kết nối với nhau trong môi trường làm việc của mình và tiếp sức cho tiềm năng về sự sáng tạo cùng năng suất làm việc được nâng cao.
Nhưng những xu hướng hiện nay có vấn đề gì không khi mục đích quan trọng nhất vẫn là: các tổ chức cần ghi nhớ những yêu cầu về nguồn lực lao động cả ở hiện tại và tương lai trước khi chuyển sang một giải pháp mới.
Giờ đây, chúng ta đang tiếp cận một thập kỷ mới với năm xu hướng hàng đầu mà ai cũng tin rằng chúng đang mang đến ảnh hưởng lớn nhất trong đấu trường HR.
• Quản lý nhân tài.
• Kết nối mạng xã hội.
• Thuê gia công bên ngoài.
• Sử dụng phần mềm như dịch vụ – (software as a service – SaaS).
• Mua bán và sáp nhập – (mergers and acquisitions – M&As).
1. Quản lý nhân tài
Quản lý nhân tài bổ sung vào tổ hợp HR nòng cốt qua việc cung cấp sự kết hợp giữa quản lý tuyển dụng, thực hiện và đãi ngộ, hoạch định thành công cùng nhiều điều khác nữa. Và chính như vậy mà ngành công nghiệp phần mềm doanh nghiệp được xem như sự tăng vọt mạnh mẽ trong việc cung cấp giải pháp cũng như nhưng các loại hình nhà cung cấp đang bán những giải pháp đó.
Chính cuộc Triển lãm và Hội thảo về Công nghệ HR thường niên lần thứ 12 năm nay diễn ra tại Chicago, Illinois (Mỹ) đã trở thành bằng chứng rõ ràng rằng quản lý nhân tài đang tồn tại, phát triển và ngày càng tạo được ảnh hưởng tới cách thức thực hiện hoạt động kinh doanh của các tổ chức. Ngày nay, cả quản lý nhân tài và phát triển nhân lực đều trở nên quan trọng cốt yếu trong việc xác định rõ tiềm năng thực hiện của một tổ chức. Nhưng khả năng để quản lý hiệu quả thường thiết lập các tổ chức rời rạc và đó chính là sự khác nhau chủ yếu giữa một tổ chức đạt được những kết quả tàm tạm với một tổ chức có được những thành công vượt qua mong đợi.
Vì vậy, quản lý nhân tài được xem là một chiến lược kết hợp các chức năng HR nòng cốt như tổ chức quản trị hành chính, lương bổng cùng các phúc lợi theo doanh số, sự phát triển và hiệu quả. Những giải pháp này mang đến một bộ công cụ hoàn thiện giúp các tổ chức nắm bắt được phương pháp tiếp cận chiến lược hơn theo hướng họ chọn lựa, quản lý và giữ chân nhân viên của mình.
Những nhà cung cấp đưa ra các giải pháp quản lý nhân tài ngày nay là một nhóm hết sức đa dạng. Điều này có thể gây khó khăn cho các nhà ra quyết định HR khi muốn xác định những giải pháp nào có thể phù hợp thực sự với tất cả các yêu cầu của mình. Các nhà ra quyết định cần quyết định xem giải pháp nào tốt hơn cho tổ chức của họ bằng cách xác định liệu có nên mua một giải pháp HR ngoài khuôn khổ hay không; một giải pháp về hệ thống quản lý học hỏi (learning management system – LMS) thực sự phù hợp với hệ thống HR nòng cốt hiện nay của họ hay một hệ thống hoạch địch nguồn lực doanh nghiệp (enterprise resource planning – ERP) mới có thể thay thế cho nhiều giải pháp riêng rẽ của họ. Sự kết hợp giữa các hệ thống kiểu như vậy là vô cùng.
Năm loại giải pháp chính về quản lý nhân tài gồm:
- Các nhà cung cấp HR truyền thống bổ sung tính năng quản lý nhân tài vào các ứng dụng HR nòng cốt của mình.
- Các nhà cung cấp ERP đã phát triển thêm quản lý nhân tài dựa trên các sản phẩm cốt lõi của họ.
- Các nhà cung cấp LMS kết hợp việc học hỏi với quản lý nhân tài.
- Các nhà cung cấp thị trường ngách tập trung vào một lĩnh vực cụ thể trong cả chuỗi quản lý nhân tài, chẳng hạn như theo dõi hồ sơ, tuyển dụng, quản lý nguồn lực, quản lý thực thi.
- Các nhà cung cấp phần mềm quản lý nhân tài chỉ tập trung vào bốn hướng chính của quản lý nhân tài là tuyển dụng, quản lý thực thi, quản lý học hỏi và quản lý đãi ngộ.
2. Kết nối mạng xã hội
Hơn năm năm qua, việc kết nối mạng xã hội – dưới dạng các mạng nội bộ, wiky (website mang tính riêng tư của một cá nhân, tổ chức hoặc cộng đồng), trung tâm truyền tin, blog và cùng nhiều hình thức khác – đã thay đổi cách thức kiểm soát đào tạo công ty và quản lý nhân tài của nhiều công ty. Các trang kết nối mạng xã hội ngày nay (LinkedIn, Facebook, MySpace và Twitter) cũng điểm xuyến thêm cho khung cảnh HR đang dần đổi thay này. Điều này diễn ra thường xuyên tới mức mà nhiều nhà cung cấp HR và quản lý nhân tài giờ đây bắt đầu xem việc kết nối mạng xã hội doanh nghiệp như một phần trong chức năng hoạt động của nhân viên mình. Ngược lại, nhiều nhân viên muốn tham gia một môi trường làm việc được hỗ trợ bởi những nguồn tài nguyên cộng tác sẵn có này.
Vì vậy, quản lý nhân tài được xem là một chiến lược kết hợp các chức năng HR nòng cốt như tổ chức quản trị hành chính, lương bổng cùng các phúc lợi theo doanh số, sự phát triển và hiệu quả. Những giải pháp này mang đến một bộ công cụ hoàn thiện giúp các tổ chức nắm bắt được phương pháp tiếp cận chiến lược hơn theo hướng họ chọn lựa, quản lý và giữ chân nhân viên của mình.
Những nhà cung cấp đưa ra các giải pháp quản lý nhân tài ngày nay là một nhóm hết sức đa dạng. Điều này có thể gây khó khăn cho các nhà ra quyết định HR khi muốn xác định những giải pháp nào có thể phù hợp thực sự với tất cả các yêu cầu của mình. Các nhà ra quyết định cần quyết định xem giải pháp nào tốt hơn cho tổ chức của họ bằng cách xác định liệu có nên mua một giải pháp HR ngoài khuôn khổ hay không; một giải pháp về hệ thống quản lý học hỏi (learning management system – LMS) thực sự phù hợp với hệ thống HR nòng cốt hiện nay của họ hay một hệ thống hoạch địch nguồn lực doanh nghiệp (enterprise resource planning – ERP) mới có thể thay thế cho nhiều giải pháp riêng rẽ của họ. Sự kết hợp giữa các hệ thống kiểu như vậy là vô cùng.
Năm loại giải pháp chính về quản lý nhân tài gồm:
- Các nhà cung cấp HR truyền thống bổ sung tính năng quản lý nhân tài vào các ứng dụng HR nòng cốt của mình.
- Các nhà cung cấp ERP đã phát triển thêm quản lý nhân tài dựa trên các sản phẩm cốt lõi của họ.
- Các nhà cung cấp LMS kết hợp việc học hỏi với quản lý nhân tài.
- Các nhà cung cấp thị trường ngách tập trung vào một lĩnh vực cụ thể trong cả chuỗi quản lý nhân tài, chẳng hạn như theo dõi hồ sơ, tuyển dụng, quản lý nguồn lực, quản lý thực thi.
- Các nhà cung cấp phần mềm quản lý nhân tài chỉ tập trung vào bốn hướng chính của quản lý nhân tài là tuyển dụng, quản lý thực thi, quản lý học hỏi và quản lý đãi ngộ.
2. Kết nối mạng xã hội
Nhưng kết nối mạng xã hội không phải là khái niệm mới theo bất cứ khía cạnh mường tượng nào. Việc cộng tác và chia sẻ kiến thức đã diễn ra suốt nhiều năm qua trong thế giới quản lý học hỏi. Khá lâu trước khi LinkedIn và Twitter trở nên đình đám trong lĩnh vực này, các nhà cung cấp LMS đã giúp con người và kiến thức đến gần với nhau hơn thông qua việc sử dụng các diễn đàn thảo luận, chát sống...
Các mạng cộng tác ngày nay giúp mang lại cho bộ phận HR sự phản hồi liên tục và tức thì từ nhân viên (dù họ có thuộc ban quản lý hay không) trong các lĩnh vực đã trở nên quan trọng không chỉ với riêng người lao động mà còn với cả các tổ chức. Tuy nhiên, trong khi những trang này trở nên hữu ích đối với việc khai thác hồ sơ xin việc, tìm kiếm các khách hàng tiềm năng và cổ vũ tinh thần tập thể trong công ty thì chúng cũng có thể làm giảm năng suất và tăng rủi ro bảo mật. Chính vì vậy mà giờ đây đã bắt đầu xuất hiện nhu cầu gia tăng về những công ty muốn tạo hoặc “tăng cường” các chính sách HR nội bộ của mình.
Đây là danh sách các kênh/ nhà cung cấp kết nối mạng xã hội – mà nhiều cái trong số đó được miễn phí – đang sử dụng chính việc kết nối mạng xã hội để thúc đẩy sự cộng tác và tìm hiểu kiến thức của người sử dụng.
Thông dụng nhất gồm:
- Twitter
- Facebook
- MySpace
- LinkedIn Ltd
3. Thuê gia công bên ngoài
Bất cứ một công ty gia công phần mềm về quản trị nguồn nhân lực (human resources outsourcing – HRO) bên ngoài nào cũng có thể đáp ứng được mọi yêu cầu HR từ tổ chức của bạn. Trong khi một số hãng HRO là những “đại gia” có thể đáp ứng được những dịch vụ đa dạng khác nhau thì số còn lại chỉ được xem như những chuyên gia HR tập trung vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp trong cả chuỗi HR chẳng hạn như các quy trình nghiệp vụ, tuyển dụng hoặc lương bổng. Tùy thuộc theo loại hình hoạt động kinh doanh của bạn, quy mô doanh nghiệp và bạn muốn kiểm soát bao nhiêu để duy trì hết các chức năng HR mà sẽ có hai tùy chọn thuê gia công bên ngoài thường có sẵn sau:
Thuê gia công tất cả các công việc về HR.
Mời thầu những lĩnh vực đòi hỏi có sự cải tiến mà đội ngũ nội bộ không thể quản lý được.
Để duy trì được theo những yêu cầu quản trị mới nhất, xu hướng và thực tiễn tốt nhất, các chuyên viên HR ngày nay phải luôn làm việc hết công suất. Chính vì vậy mà những chức năng HR thuê gia công bên ngoài truyền thống (hoặc một số phi truyền thống) đều là cách giúp những chuyên viên này có được thời gian rảnh cho những nỗ lực mang tính chiến lược hơn. Những giao dịch HR thuê gia công bên ngoài là một hướng đi được chứng minh rằng việc kiểm soát hiệu quả hơn và giảm bớt chi phí trong khi vẫn đạt được mức dịch vụ tốt hơn.
Một số dịch vụ cơ bản do các hãng HRO đưa ra bao gồm:
- Giám sát các yêu cầu của đội ngũ nhân viên và cơ cấu tổ chức.
- Cung cấp theo dõi chi phí, lương bổng, thời gian và HR đồng nhất.
- Đem lại các dịch vụ tuyển dụng, đào tạo và phát triển.
- Theo dõi các mục tiêu phòng ban, mục đích và chiến lược.
Các tổ chức thuê gia công bên ngoài các dịch vụ HR nhằm:
- Cho phép bộ phận HR tập trung vào các nỗ lực mang tính chiến lược.
- Giành được kiến thức chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Tiếp cận các công nghệ đổi mới nhằm đảm bảo công nghệ được nâng cấp liên tục.
- Giảm chi phí thông qua cải tiến quy trình và tự động hóa.
- Giảm tối thiểu hoặc chuyển rủi ro pháp lý sang cho bên nhận gia công về những phát sinh xuất hiện định kỳ.
Đây là một vài liên kết mà các công ty tìm kiếm các chuyên gia HRO có thể thấy thích:
- International Association of Outsourcing Professionals (IAOP) Global Outsourcing 100 List.
- HROWorld Summit 2009.
4. Sử dụng phần mềm như dịch vụ – (software as a service – SaaS)
Các mạng cộng tác ngày nay giúp mang lại cho bộ phận HR sự phản hồi liên tục và tức thì từ nhân viên (dù họ có thuộc ban quản lý hay không) trong các lĩnh vực đã trở nên quan trọng không chỉ với riêng người lao động mà còn với cả các tổ chức. Tuy nhiên, trong khi những trang này trở nên hữu ích đối với việc khai thác hồ sơ xin việc, tìm kiếm các khách hàng tiềm năng và cổ vũ tinh thần tập thể trong công ty thì chúng cũng có thể làm giảm năng suất và tăng rủi ro bảo mật. Chính vì vậy mà giờ đây đã bắt đầu xuất hiện nhu cầu gia tăng về những công ty muốn tạo hoặc “tăng cường” các chính sách HR nội bộ của mình.
Đây là danh sách các kênh/ nhà cung cấp kết nối mạng xã hội – mà nhiều cái trong số đó được miễn phí – đang sử dụng chính việc kết nối mạng xã hội để thúc đẩy sự cộng tác và tìm hiểu kiến thức của người sử dụng.
Thông dụng nhất gồm:
- MySpace
- LinkedIn Ltd
3. Thuê gia công bên ngoài
Bất cứ một công ty gia công phần mềm về quản trị nguồn nhân lực (human resources outsourcing – HRO) bên ngoài nào cũng có thể đáp ứng được mọi yêu cầu HR từ tổ chức của bạn. Trong khi một số hãng HRO là những “đại gia” có thể đáp ứng được những dịch vụ đa dạng khác nhau thì số còn lại chỉ được xem như những chuyên gia HR tập trung vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp trong cả chuỗi HR chẳng hạn như các quy trình nghiệp vụ, tuyển dụng hoặc lương bổng. Tùy thuộc theo loại hình hoạt động kinh doanh của bạn, quy mô doanh nghiệp và bạn muốn kiểm soát bao nhiêu để duy trì hết các chức năng HR mà sẽ có hai tùy chọn thuê gia công bên ngoài thường có sẵn sau:
Thuê gia công tất cả các công việc về HR.
Mời thầu những lĩnh vực đòi hỏi có sự cải tiến mà đội ngũ nội bộ không thể quản lý được.
Để duy trì được theo những yêu cầu quản trị mới nhất, xu hướng và thực tiễn tốt nhất, các chuyên viên HR ngày nay phải luôn làm việc hết công suất. Chính vì vậy mà những chức năng HR thuê gia công bên ngoài truyền thống (hoặc một số phi truyền thống) đều là cách giúp những chuyên viên này có được thời gian rảnh cho những nỗ lực mang tính chiến lược hơn. Những giao dịch HR thuê gia công bên ngoài là một hướng đi được chứng minh rằng việc kiểm soát hiệu quả hơn và giảm bớt chi phí trong khi vẫn đạt được mức dịch vụ tốt hơn.
Một số dịch vụ cơ bản do các hãng HRO đưa ra bao gồm:
- Giám sát các yêu cầu của đội ngũ nhân viên và cơ cấu tổ chức.
- Cung cấp theo dõi chi phí, lương bổng, thời gian và HR đồng nhất.
- Đem lại các dịch vụ tuyển dụng, đào tạo và phát triển.
- Theo dõi các mục tiêu phòng ban, mục đích và chiến lược.
Các tổ chức thuê gia công bên ngoài các dịch vụ HR nhằm:
- Cho phép bộ phận HR tập trung vào các nỗ lực mang tính chiến lược.
- Giành được kiến thức chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Tiếp cận các công nghệ đổi mới nhằm đảm bảo công nghệ được nâng cấp liên tục.
- Giảm chi phí thông qua cải tiến quy trình và tự động hóa.
- Giảm tối thiểu hoặc chuyển rủi ro pháp lý sang cho bên nhận gia công về những phát sinh xuất hiện định kỳ.
Đây là một vài liên kết mà các công ty tìm kiếm các chuyên gia HRO có thể thấy thích:
- International Association of Outsourcing Professionals (IAOP) Global Outsourcing 100 List.
- HROWorld Summit 2009.
4. Sử dụng phần mềm như dịch vụ – (software as a service – SaaS)
Khi SaaS – thường được coi như phần mềm theo yêu cầu – xuất hiện trong suy nghĩ của hầu hết các nhà đưa ra quyết định về công nghệ thông tin thì điều đầu tiên họ nghĩ tới đó là “Bảo mật cái gì?”. Điều này đặc biệt đúng đối với những người có trách nhiệm mua một hệ thống HR cho các tổ chức của mình – những tổ chức luôn cất các báo cáo thành tích của nhân viên vào tủ và khóa kỹ lại. Có thể năm năm trước, việc bảo mật là một vấn đề nhưng ngày nay, mô hình SaaS đang dành được vị thế nên ngày càng nhiều doanh nghiệp – cả lớn và nhỏ – đều đi theo xu hướng này. Một số lý do chính đối với xu hướng này liên quan trực tiếp tới những lợi ích mà SaaS mang lại.
Những lợi ích đó là:
- Tiếp cận liên tục.
- Triển khai nhanh chóng.
- Các mức bảo mật cao.
- Tiết kiệm chi phí.
- Hiệu quả về mặt thời gian.
Hơn cả việc tiêu tốn hàng trăm nghìn đô-la vào các phiên bản phần mềm bản quyền và nâng cấp phần cứng, các công ty có thể chọn sử dụng giải pháp HR theo nhu cầu với những cái được tính hóa đơn hàng thàng và chỉ cho những mô-đun mà công ty sử dụng. Ngoài ra, không cần phải có chu trình nâng cấp phức tạp bởi các ứng dụng theo yêu cầu luôn tự động cập nhật và được chuyển định kỳ tới khách hàng. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chính là SaaS có thể thực hiện được tính năng HR giống như một chức năng theo giả thuyết.
5. Mua bán và sáp nhập: Công nghệ tới hai lần
Cuộc khủng hoảng hiện nay đã cho thấy sự khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp cũng như các nhà cung cấp phần mềm. Năm 2009, các vụ mua bán và sáp nhập (mergers and acquisitions – M&As) đã trở thành hiện tượng chung. Trong năm ngoái, chúng ta đã chứng kiến các công ty nhỏ hơn bị những gã khổng lồ hất tung trong khi những công ty còn lại vẫn đang cố đàm phán để cải thiện cho các bên tham gia được tốt nhất – sáp nhập hai thực thể lại cùng nhau để trở thành một tổ chức lớn hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, đó không phải là giải pháp thường xuyên.
Theo trang HR.com thì “thực tế cho thấy rằng tới hơn 2/3 các thương vụ mua bán và sáp nhập bị thất bại khi cố hoàn tất thu về lợi ích đã đề ra trước đó”. Chính sự không chắc chắn đã đem đến những vấn đề HR phát sinh do quản lý tồi trong các vụ M&A – điều luôn trở thành nguyên nhân chính dẫn tới những thất bại nêu trên.
Các vụ M&A cũng cho thấy được sự biến động khá lớn đối với nhân viên của các hãng có liên quan và sự phản ứng lại có thể khiến cho họ bị trở nên căng thẳng, tức giận, dẫn tới đình trệ... Thường thì tác động của những vụ M&A là doanh thu cao còn tinh thần và động lực thúc đẩy làm việc bị giảm xuống – chưa nói tới việc giảm sút năng suất. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ M&A đều thất bại bởi vẫn có một số trường hợp chứng minh rằng khá thành công do biết kết hợp các yếu tố quản lý, tâm lý, xu hướng, công nghệ, giải pháp và chiến lược nhịp nhàng cùng nhau.
Vì vậy, các công ty nên dành thêm thời gian tìm hiểu những công cụ nào hữu ích cho bộ phận HR của mình giữa vô số các công cụ và giải pháp mới cóng sẵn có trên thị trường. Bởi rõ ràng không có gì mới trong các xu hướng này nhưng chính chúng lại đang góp phần tạo nên sự thay đổi diện mạo mới cho đấu trường HR.
Tuy nhiên, trên thực tế, cho dù nền kinh tế quốc gia như thế nào hoặc các xu hướng công nghệ HR hiện nay là gì thì điều quan trọng vẫn là các tổ chức phải luôn ghi nhớ các yêu cầu nguồn lực lao động hiện tại và tương lai của mình cũng như phải xác định rõ các chiến lược HR ngắn và dài hạn của tổ chức trước khi chuyển sang một giải pháp mới.
Những lợi ích đó là:
- Tiếp cận liên tục.
- Triển khai nhanh chóng.
- Các mức bảo mật cao.
- Tiết kiệm chi phí.
- Hiệu quả về mặt thời gian.
Hơn cả việc tiêu tốn hàng trăm nghìn đô-la vào các phiên bản phần mềm bản quyền và nâng cấp phần cứng, các công ty có thể chọn sử dụng giải pháp HR theo nhu cầu với những cái được tính hóa đơn hàng thàng và chỉ cho những mô-đun mà công ty sử dụng. Ngoài ra, không cần phải có chu trình nâng cấp phức tạp bởi các ứng dụng theo yêu cầu luôn tự động cập nhật và được chuyển định kỳ tới khách hàng. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chính là SaaS có thể thực hiện được tính năng HR giống như một chức năng theo giả thuyết.
5. Mua bán và sáp nhập: Công nghệ tới hai lần
Cuộc khủng hoảng hiện nay đã cho thấy sự khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp cũng như các nhà cung cấp phần mềm. Năm 2009, các vụ mua bán và sáp nhập (mergers and acquisitions – M&As) đã trở thành hiện tượng chung. Trong năm ngoái, chúng ta đã chứng kiến các công ty nhỏ hơn bị những gã khổng lồ hất tung trong khi những công ty còn lại vẫn đang cố đàm phán để cải thiện cho các bên tham gia được tốt nhất – sáp nhập hai thực thể lại cùng nhau để trở thành một tổ chức lớn hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, đó không phải là giải pháp thường xuyên.
Theo trang HR.com thì “thực tế cho thấy rằng tới hơn 2/3 các thương vụ mua bán và sáp nhập bị thất bại khi cố hoàn tất thu về lợi ích đã đề ra trước đó”. Chính sự không chắc chắn đã đem đến những vấn đề HR phát sinh do quản lý tồi trong các vụ M&A – điều luôn trở thành nguyên nhân chính dẫn tới những thất bại nêu trên.
Các vụ M&A cũng cho thấy được sự biến động khá lớn đối với nhân viên của các hãng có liên quan và sự phản ứng lại có thể khiến cho họ bị trở nên căng thẳng, tức giận, dẫn tới đình trệ... Thường thì tác động của những vụ M&A là doanh thu cao còn tinh thần và động lực thúc đẩy làm việc bị giảm xuống – chưa nói tới việc giảm sút năng suất. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ M&A đều thất bại bởi vẫn có một số trường hợp chứng minh rằng khá thành công do biết kết hợp các yếu tố quản lý, tâm lý, xu hướng, công nghệ, giải pháp và chiến lược nhịp nhàng cùng nhau.
Vì vậy, các công ty nên dành thêm thời gian tìm hiểu những công cụ nào hữu ích cho bộ phận HR của mình giữa vô số các công cụ và giải pháp mới cóng sẵn có trên thị trường. Bởi rõ ràng không có gì mới trong các xu hướng này nhưng chính chúng lại đang góp phần tạo nên sự thay đổi diện mạo mới cho đấu trường HR.
Tuy nhiên, trên thực tế, cho dù nền kinh tế quốc gia như thế nào hoặc các xu hướng công nghệ HR hiện nay là gì thì điều quan trọng vẫn là các tổ chức phải luôn ghi nhớ các yêu cầu nguồn lực lao động hiện tại và tương lai của mình cũng như phải xác định rõ các chiến lược HR ngắn và dài hạn của tổ chức trước khi chuyển sang một giải pháp mới.
Nguồn bigZezo
Nhãn:
Elearning,
elearning services,
HRM,
LMS,
SaaS
Chủ Nhật, 4 tháng 4, 2010
When Moodle meets Google
Moogle Apps
Posted by Joel Kerr on 05 Mar
Do you Moodle? We do.
Do you Google? Of course you do.
Do you Moogle? Er…
If you are not already aware that Moodle can be integrated with Google Apps you will be pleased you found this.
The very user-friendly Google Apps comprises email, calendar, document-creation, website creation, messaging tools etc. Moodle is increasingly becoming the VLE of choice for educators across the world. Together they offer some very exciting potential.
The integration of the two provides a Single Sign-On. This means with one sign on you will have access to your classes, activities, resources, emails, docs, sites – all in one place! Let’s not forget, like Moodle, Google Apps is free and available to all.
The Google Enterprise Blog has the following to say:
Now, they [students] can access whatever their instructors may have posted in their LMS, such as lecture notes, homework assignments, and relevant links and resources, and easily integrate that content into their workspace on Google Apps.
They can collaborate with their classmates in Google Docs, build a fully fleshed-out Google Site, or even just send an email – without having to manage multiple accounts in multiple systems.
And, needless to say, the same goes for their teachers, professors, administrators – anyone who uses the system.
At Synergy Learning we have integrated Google Apps with Moodle for a number of our clients, with great results every time.
Mr Graham Evans from Merthyr Tydfil College, has worked with Synergy Learning to oversee the Google Apps / Moodle integration across 6 schools in the area:
“The integration is early days yet but the implications are absolutely fantastic, with the potential for each child to have their own email address.
The option of each pupil signing in and then clicking on Google Docs and an account is made for them and then they just travel seamlessly to the Google Docs page is magical. The option for pupils to share a folder with teachers makes the impossible job of keeping track of work and marking it far more practical as is the exciting option of collaboration.
All in all this is the future for these pupils and staff and Google Docs has made this possible and it’s free.
I had some technical issues setting up the Google Apps but there is a wealth of good advice on the web and Synergy did their job in setting up our Moodle sites very efficiently and very quickly which seem to be their trademark in our dealings with them. The telephone and email support from Synergy has been faultless and friendly.”
If you are interested in combining Moodle with Google Apps email info@synergy-learning.com for more information.
Source: http://www.i-newswire.com/when-moodle-meets-google-apps/29211
Nhãn:
e-learning,
Elearning,
elearning services,
LMS,
Moodle
Top trends in e-learning and corporate training
By Josh Bersin
Source: http://www.hrmreport.com/article/Top-trends-in-e-learning-and-corporate-training/
This is an exciting time of change in enterprise learning and talent management. The tight labor market, coupled with the increased focus on integrated performance and learning strategies, will force further alignment between training and HR. Learning technologies will evolve, and self-published content and collaboration will become a significant element in enterprise learning solutions. Organizations will continue to evolve toward shared services and struggle to build integrated business plans that incorporate learning across the organization.
Below are the top trends shown by our research. Readers can find further details in the free report, Enterprise Learning and Talent Management 2007. To download, go to http://www.bersin.com/contactus/2007_predictions.asp.
1. Increasing training budgets
Bersin & Associates research is showing dramatically increasing training budgets. According to recent research, corporate training budgets in the United States increased on average by seven percent in 2006 - the largest increase in five years.
Bersin & Associates research is showing dramatically increasing training budgets. According to recent research, corporate training budgets in the United States increased on average by seven percent in 2006 - the largest increase in five years.
Most corporations are investing more in training for three primary reasons:
- Economic growth in many regions is putting greater demands on training.
- Talent shortages are being felt in all industry sectors and across almost all geographies. Consequently, companies are putting more emphasis on hiring and training new personnel and on training current employees for new roles.
- Increased focus on talent management. Corporations are increasingly recognizing that learning and development is part of an integrated talent management process that includes recruiting, performance management, leadership development, and succession planning.
2. Changing structure and operations of corporate trainingThe most successful learning organizations have moved away from the corporate university model to a shared services model. We define shared services as an internal business function that provides consulting and operational services to various groups throughout the enterprise. The role of a shared services organization is to support business units in achieving their business goals.
This shift is resulting in organizational changes. Shared services organizations spend more on technology and outsourced services, thereby allowing internal staff resources to focus more on strategy, business alignment, measurement, and performance consulting. An indicator of this trend is the fact that payroll spending is flat or declining in most learning organizations – despite the overall increase in training budgets. In 2006, the percent of training budget spent on payroll declined by 11 percent.
3. New economics lead to increased use of outsourcingLike IT and marketing, learning organizations are cost centers. Historically, learning has been based upon a variable cost model. With such a model, costs are directly dependent upon the number of employees trained.
However, with the advent of e-learning, learning in most companies is now based on a fixed plus variable cost model. This is because the use of e-learning requires up-front investments in technology, development tools, and content. These investments are fixed, no matter how many employees are trained. This model gives companies the ability to reach more employees and deliver more content for the same cost.
As a result of these new economics, learning organizations must reallocate resources. Delivery-based positions are being replaced with new positions in technology, content development, measurement, and support.
Because technology and sophisticated content development require specialized skills, learning organizations are relying more on outsourcing services to help meet these needs. By implementing an infrastructure that reaches many more employees at a far lower cost per hour, the training organization can selectively outsource areas, which are not core to the company’s expertise and focus.
4. Leadership development takes center stageLeadership development and management education is the largest single program area of spending in corporate training today.
This is not news; in our 2005 to 2006 research, we found the same result. What is new is the push toward integrating leadership development into talent management processes, such as succession planning. Our talent management research indicates that, among all the talent-related processes in HR, more focus is being given to leadership development and succession planning than almost any other area (with performance management coming in second).
The war for talent and changing workforce demographics mean that companies in almost every industry sector are suffering from a lack of middle managers. Companies must build from within their ranks. 41 percent of HR managers tell us that one of their top talent challenges is building and maintaining their leadership pipeline.
5. Talent management drives changes in HRJust as learning organizations are evolving, so is the HR organization. The talent management drivers discussed throughout this article are moving HR into the role of “steward” for its company’s talent management processes. Today, it is not enough for HR to partner with lines of business; it must understand and develop organizational capabilities.
In this new role, HR managers and executives must identify critical talents required by the organization; integrate the business processes involved in retaining and developing employees with these talents; and provide ongoing workforce planning.
This integrated approach requires eliminating silos of processes and information for compensation, performance management, leadership development, and succession planning. It also requires better integration of HR systems for a more complete view of the workforce.
HR’s changing role impacts learning organizations in these ways:
- Organizations are revamping, improving and automating performance management.
- Performance management and corporate learning are being integrated, as are the supporting system platforms.
- Organizations are rethinking core competencies.
- New job roles and organization structures are emerging.
6. E-learning matures and continues to evolveIn 2006, e-learning continued its evolution into a mainstream approach to corporate training. Almost every organization we talk with has some form of e-learning now available to their employees.
Questions that we now hear are those related to more sophisticated uses of e-learning, covering topics such as:
- Maintaining the volume yet increasing the quality of the e-learning.
- Adding simulations and other high-fidelity activities and exercises to learning programs.
- Reducing the cost and complexity of LMS implementations while increasing use.
- Creating learning environments in which employees can find just what they need – including training, reference information, and performance support.
- Helping employees learn from each other through communities of practice, blogs, wikis, and other forms of self-published content.
One of the most significant indications of e-learning maturity was the acquisition of NETg by SkillSoft. From 2000 to 2005, these two companies were among the fastest-growing e-learning companies in the market. Today the off-the-shelf content market has become more and more commoditized. The success of the “new” SkillSoft will depend on its ability to answer these and other questions.
7. Learning content management is growingOur research members tell us that delivering up-to-date content, coupled with performance support, is now one of their top training issues. They want to be able to:
- Quickly edit content when materials change
- Republish content into printed materials and other forms
- Make content available as FAQs or searchable knowledge databases
- Develop multi-language versions from the same source
- More rapidly develop the content, using the skills of a wide variety of SMEs
- Assign roles and responsibilities to their content developers
These are all issues related to content management. We have maintained for years that the LCMS market (learning content management systems) would become more robust – and in 2006, this has happened. LCMS companies such as EEDO, OutStart and Giunti Labs have implemented solutions. Nearly every LMS vendor offers an LCM solution with its platform. And almost one-third of our research members tell us they are searching for and selecting some form of LCMS
8. Self-published content is becoming part of learningOver the last 12 months, there has been an explosion in the use of blogs, wikis and podcasting. This self-publishing trend has had a major impact on our political systems and social networks. This same paradigm is starting to change corporate organizations and we believe the training organizations should try to harness it.
For instance, in any company, employees are continuously learning, interacting, and developing new approaches to solving problems. How does an organization share this collective wisdom, which is occurring in real-time among workers? The answer appears to be through the use self-publishing technologies.
Many companies are now experimenting. While there are no proven approaches yet, they are showing tremendous potential.
9. e-learning approaches continue to evolveIn 2006, we saw significant growth in the use of application simulations (made possible largely through low-cost, easy-to-use tools such as Captivate) and rapid e-learning (through the use of tools such as Adobe Connect, Articulate and others). We have also seen tremendous growth in the use of online video (through Flash), business simulations and performance-support portals to complement e-learning programs. Webcasting continues to grow, with more than 10 different solution-providers offering low-cost, live e-learning tools.
Big changes that took place in 2006 include the following.
- Widespread adoption of blended learning
- Continuous growth in rapid e-learning as an approach
- Establishment of the LCMS market
- Focus on high-performance, high-fidelity online training:
10. LMS market continues to changeAccording to our research, the LMS market grew significantly in 2006. More than 40 percent of all organizations and more than 70 percent of large enterprises have an LMS. Many companies are trying to consolidate multiple systems. The LMS market for mid-sized companies is now exploding, driven largely by the wide range of proven on-demand solutions now available.
Most LMS vendors grew in 2006: Cornerstone OnDemand, GeoLearning, Learn.com, NetDimensions, Oracle / PeopleSoft, Plateau, Saba, SAP and SumTotal all saw significant growth.
The LMS market is also evolving. Companies are now looking to their LMSs to integrate with other HR systems as a talent management platform. Vendors have responded by aggressively building and buying technology to deliver an integrated solution for performance management, learning and development planning.
Our research indicates see great benefits from integrated learning and performance management systems. While only a small number of companies have implemented such a solution today, we believe that in 2007 most large LMS buyers will look for such integrated solutions.
Josh Bersin is president and founder of Bersin & Associates.
Nhãn:
e-learning,
Elearning,
elearning services,
HRM,
LMS
Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2010
The Future Of Learning Design
If you are intrigued by the future of learning design, you won’t want to miss the second half of this interview with Karl Kapp. In case you missed the first half, see Games and Simulations.
Coach: What types of challenges do newer technologies, such as mobile and podcast, present to the instructional designer?
Karl: The biggest problem is that in the learning field we sometimes get seduced by the technology and forget the underlying learning need and, even more importantly, the underlying business need. Organizations invest in learning initiatives because they have a business need; sell more product, keep employees safe to reduce liability, increase market share.
Learning initiatives are not altruistic for companies. So, first and foremost, we need to focus on how technology will address a business need and avoid the “cool” or “wow” factor that often overwhelms the use of educational technology.
Having said that, another challenge confronting instructional designers is to “think outside the classroom” paradigm. Too often we take something like a podcast and present it as an hour long lecture. Wrong format. Instead, we need to think more like a radio talk show. They engage listeners through dialogue with guests, short segments and narrowly defined topics. All great techniques to use for educational podcasts.
Another example is National Public Radio (NPR). They use authentic sounds to put the listener in the location of the interview, stories to provide the context of the segment and then insightful questions. Those are all great techniques we can use in podcasts to engage our learners. Designers need to get their heads out of the design books and into other media to see how its done outside the field.
Mobile learning, for example, doesn’t mean taking an entire course and shrinking it to fit on the limited screen size of a smart phone. Instead it means learning dictionaries where information can easily be looked up and retrieved. It means mini-games that reinforce learning. It means audio-based instruction that someone calls and receives from an automated menu system.
It does not mean “shrunken slides.” Instructional designers need to run, not walk, away from classroom-thinking and get to the point of providing short, quick business focused learning points that are easily accessible when and where our learners need them. This means leveraging new technologies to deliver non-traditional instruction.
Coach: In general, how do you compare the effect and impact of informal learning in the workplace versus formal, structured eLearning?
Karl: A recent (2008) ASTD/Institute for Corporate Productivity (i4cp) study revealed that more than 70 percent of the knowledge that employees acquire comes from informal learning experiences but that 78% of the companies allocate less than 10% of their budget for informal learning.
So by shear volume, informal learning is the most powerful tool for learning in organizations. And, it turns out, the most under utilized. By ignoring the impact of informal learning, companies do not have a consistent learning message or consistent methodologies. Instead they have a hodgepodge of informal learning initiatives that no one is monitoring.
The impact of informal learning is huge. We, as learning professionals, need to embrace informal learning and work to own it. We need to create guidelines to help target informal learning, we need to create environments in which informal learning can occur (both virtually and face-to-face) and we need to encourage experts within our organizations to actively engage in sharing knowledge. Additionally, we need to educate executives on the value of informal technologies to aid in learning, innovation and organizational collaboration.
Coach: How do you think social media and newer technologies will converge in the learning space in the next 5-10 years?
Karl: Well, as the futurist William Gibson has been quoted as saying “the future is already here, it is just not evenly distributed.” An interesting convergence I see is the use of virtual immersive environments as the central hub for learning, collaboration and innovation within an organization. I have seen and taught with a tool called ProtoSphere that has a 3D virtual environment interface but also includes blogs and wikis, an interface with MS SharePoint, the ability to locate experts within an organization, application sharing and the ability to launch e-learning courses.
It is not a huge leap to think the next natural step would be to tie it to mobile devices. Some form of the convergence of all these technologies in one tool will be the future environment in which knowledge workers will interact. Knowledge workers will log into a 3D virtual office space with easy access to other systems and other workers. This will be great for rapid prototyping, the visualization of data and collaboration across great geographical distances. While being more engaging and productive than our current 2D paradigms.
Alternatively, the product Google Wave is impressive. The ability to create threaded discussions, new “waves” and interject into emails and seamlessly set up web pages is truly impressive. However, the one thing that is missing, in my opinion, is the 3D element. So I look to the convergence of social media, 3D worlds and business applications to be the future of learning.
Coach: As a professor, how are Instructional Design and Technology curriculums adapting to the changing technologies?
Karl: We have switched to colored chalk…just kidding. We are adapting in a number of ways. First the basic underlying concepts of instructional strategies and techniques do not change. So we stress the importance of understanding how to apply instructional strategies to different types of content.
Second, we use the tools. Students create blogs, contribute to wikis, record podcasts and participate in 3D virtual environments. It is important for instructional design students to use the tools that are being introduced into academic and corporate settings. There is no substitute for hands on experience using the technologies. That is the best way to learn about the strengths and weaknesses of different technologies for different instructional needs.
Third, we discuss alternatives to the classroom paradigm of instructional design. We talk about distributed practice techniques, we discuss using documentary techniques for video-based learning, techniques from the radio for podcasts, we teach how to leverage the strengths of the new media for learning but also caution against the seduction of the technology.
Finally, we listen to what our students are telling us. They are leveraging social media technologies Facebook, Twitter, ect., in ways that we can’t imagine because they are immersed in it. When they have good ideas about leveraging these technologies for learning, we listen and encourage them to share with the faculty and each other. We create a learning community where students, alumni and faculty can all help each other stay connected and up-to-date on the latest in the field.
Thanks, Karl!
How do you think people will be learning in the future? Comment below.
Source: http://theelearningcoach.com/elearning_design/future-of-learning-design/
“Mobile Learning 2.0: The Next Phase of Innovation in Mobility,” the 2010 ELI Online Spring Focus Session
On March 3-4th we tuned in to “Mobile Learning 2.0: The Next Phase of Innovation in Mobility,” the 2010 ELI Online Spring Focus Session. This was of especial interest, as we were about to give our poster session on Mobile Devices Access to Library Databases at NERCOMP! The discussion actually centered around slightly different topics, but were really interesting in ways that people were thinking about pedagogical uses for mobile devices, as well as ways to enhance campus life.
One of the ways smartphones are being used is what I would call an “advanced clicker”. students can text in a response to an immediate event happening in a classroom, or somewhere on campus. Other uses of smartphones in courses were for mapping, digital storytelling, data gathering (such as survey devices), and vlogging (video blogging). Even though these phones could be “disruptive devices”, or… as many teachers believe, “distractive devices”… currently about 1/3 of students own and use internet from a handheld device. This ownership is likely to keep growing.
The mobility goes beyond the campus where students are already hooking into the network via the wireless internet. Now students (with the data plans) for mobile devices can be on the internet anywhere cell phones work (which is ubiquitous in a city, and increasingly everywhere in the US). However on a campus, even those students not paying extra for data plans, can link into their campus internet and use their devices to access all kinds of things.
The speakers talk about mobile handhelds as a “convergence device”. This is to say, one piece of equipment contains those items that use to take several: a phone, a camera, a computer to the internet, typing etc. One should note, for example, that a Nokia N 900 is faster than a 1997 Thinkpad. However, smartphones will not replace laptops for the time being. Not all capabilities are there and navigation is still a bit clumsy for many people.
Other uses of the mobile smartphones are not only in class polling, but to use twitter (also can be used for polling!), lab reports, field data collecting, social networking within a class, creating e-portfolios, making a student newspaper available to students, and other university communications, such as alerts. Students and universities have created websites specifically for mobile devices, such that Stanford is having its bus schedule beamed to their mobile web pages, linked to a geospatial map of the campus, so students can tell where the bus is at any given time. Duke and University of Florida have special mobile web pages, and UT is working on applications to work with mobile devices, including course assessments.
There seem to be 2 big styles: the “business type” such as the Blackberry, and the “touchscreen” type, like the I-phone.
On one campus, they want students to receive a device for a semester and can be used with different phone plans. At the end of the semester it is wiped clean. On another campus an Environmental Studies class is using the phones to collect data on location using the physical coordinates of the phone in that place. Students are using the phones to tell a “digital story” –using the video features as well as other portions of the multifaceted device, especially coordinating with geospatial capabilities. Video materials can be stored in the cloud. Another use was to boost memory recall in a class. Some students were asked to produce a reflective piece about their encounter with an environment location. Some students created a panorama by taking a picture from the same spot at different seasons. They were able to pinpoint the spot to put the camera by using the GIS capabilities. The devices can also be used in a GIS course, as well as social science or humanities uses. The main thing is to get the students to do the learning by being active and use the phone as their reporting tool.
Video blogging (Vlogging) is an up-and-coming aspect of the use of these mobile devices. It can be used as a type of “webcam” to record activity in any spot and livestreamed to the internet. The mobile devices can be used for getting people together on campus, or for promoting student events.
Mobile devices now are getting the reputation as ways that students can contribute to discussions, collaborate with the faculty in building and amassing data, and in being creative in new and active ways.
Source: http://blogs.brandeis.edu/edtech/2010/03/11/mobile-learning-2-0-the-next-phase-of-innovation-in-mobility-the-2010-eli-online-spring-focus-session/
The future of Mobile Learning
A survey of expert expectation about learning on mobile phone by Maciej Kuszpa, 2005
http://www.fernuni-hagen.de/BWLOPLA/ME/Mobile-Education.com_Kuszpa_2005.12_Online-Educa-Berlin.pdf
Tại sao phải dùng Moodle
Mục I: Moodle là gì
Được sáng lập năm 1999 bởi Martin Dougiamas. Moonle được bởi từ ( Modular Object-Oriented Dynamic Learning Environment ) Do không hài lòng với hệ thống LMS/LCMS thương mại WebCT trong trường học Curtin của Úc, Martin đã quyết tâm xây dựng một hệ thống LMS mã nguồn mở hướng tới giáo dục và người dùng hơn. Từ đó đến nay Moodle có sự phát triển vượt bậc và thu hút được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới và ngay cả những công ty bán LMS/LCMS thương mại lớn nhất như BlackCT (BlackBoard + WebCT) cũng có các chiến lược riêng để cạnh tranh với Moodle. Có thể xem thêm thông tin về BlackCT tại http://www.blackboard.com
Moodle nổi bật là thiết kế hướng tới giáo dục, dành cho những người làm trong lĩnh vực giáo dục, Do thiết kế dựa trên module nên Moodle cho phép bạn chỉnh sửa giao diện bằng cách dùng các theme có trước hoặc tạo thêm một theme mới cho riêng mình. Do thiết kế dựa trên module nên Moodle cho phép bạn chỉnh sửa giao diện bằng cách dùng các theme có trước hoặc tạo thêm một theme mới cho riêng mình.
Moodle phù hợp với nhiều cấp học và hình thức đào tạo: phổ thông, đại học/cao đẳng, không chính quy, trong các tổ chức/công ty.
Moodle rất đáng tin cậy, có trên 10 000 site trên (thống kê tại moodle.org) thế giới đã dùng Moodle tại 160 quốc gia và đã được dịch ra 75 ngôn ngữ khác nhau. Có trên 100 nghìn người đã đăng kí tham gia cộng đồng Moodle (moodle.org) và sẵn sàng giúp bạn giải quyết khó khăn. Nếu bạn cần sự giúp đỡ chuyên nghiệp về cài đặt, hosting, tư vấn sử dụng Moodle, phát triển thêm các tính năng mới, và tích hợp Moodle với các hệ thống đã có trong trường của bạn, bạn có thể chọn cho mình một trong các công ty Moodle Partners (Khoảng 30 công ty).
Moodle phát triển dựa trên PHP (Ngôn ngữ được dùng bởi các công ty Web lớn như Yahoo, Flickr, Baidu, Digg, CNET) có thể mở rộng từ một lớp học nhỏ đến các trường đại học lớn trên 50 000 sinh viên (ví dụ đại học Open PolyTechnique của Newzealand hoặc sắp tới đây là đại học mở Anh - Open University of UK, trường đại học cung cấp đào tạo từ xa lớn nhất châu Âu, và đại học mở Canada, Athabasca University). Bạn có thể dùng Moodle với các database mã nguồn mở như MySQL hoặc PostgreSQL. Phiên bản 1.7 sẽ hỗ trợ thêm các database thương mại như Oracle, Microsoft SQL để các bạn có thêm nhiều cơ hội lựa chọn.
Để biết mọi người nghĩ gì về Moodle, các nghiên cứu về Moodle, cũng như so sánh Moodle với các hệ thống khác, bạn đọc tiếp tại: http://moodle.org/buzz/. Về tương lai phát triển của Moodle, bạn xem tại: http://docs.moodle.org/en/Roadmap
Một câu hỏi đặt ra là Moodle trị giá bao nhiêu? Một thống kê thú vị tại http://www.ohloh.net/projects/25 kết luận Moodle đáng giá 20 triệu USD nếu bạn phải xây dựng một hệ thống tương tự như thế từ đầu
Đỗ Lộc:
Được sáng lập năm 1999 bởi Martin Dougiamas. Moonle được bởi từ ( Modular Object-Oriented Dynamic Learning Environment ) Do không hài lòng với hệ thống LMS/LCMS thương mại WebCT trong trường học Curtin của Úc, Martin đã quyết tâm xây dựng một hệ thống LMS mã nguồn mở hướng tới giáo dục và người dùng hơn. Từ đó đến nay Moodle có sự phát triển vượt bậc và thu hút được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới và ngay cả những công ty bán LMS/LCMS thương mại lớn nhất như BlackCT (BlackBoard + WebCT) cũng có các chiến lược riêng để cạnh tranh với Moodle. Có thể xem thêm thông tin về BlackCT tại http://www.blackboard.com
Moodle nổi bật là thiết kế hướng tới giáo dục, dành cho những người làm trong lĩnh vực giáo dục, Do thiết kế dựa trên module nên Moodle cho phép bạn chỉnh sửa giao diện bằng cách dùng các theme có trước hoặc tạo thêm một theme mới cho riêng mình. Do thiết kế dựa trên module nên Moodle cho phép bạn chỉnh sửa giao diện bằng cách dùng các theme có trước hoặc tạo thêm một theme mới cho riêng mình.
Moodle phù hợp với nhiều cấp học và hình thức đào tạo: phổ thông, đại học/cao đẳng, không chính quy, trong các tổ chức/công ty.
Moodle rất đáng tin cậy, có trên 10 000 site trên (thống kê tại moodle.org) thế giới đã dùng Moodle tại 160 quốc gia và đã được dịch ra 75 ngôn ngữ khác nhau. Có trên 100 nghìn người đã đăng kí tham gia cộng đồng Moodle (moodle.org) và sẵn sàng giúp bạn giải quyết khó khăn. Nếu bạn cần sự giúp đỡ chuyên nghiệp về cài đặt, hosting, tư vấn sử dụng Moodle, phát triển thêm các tính năng mới, và tích hợp Moodle với các hệ thống đã có trong trường của bạn, bạn có thể chọn cho mình một trong các công ty Moodle Partners (Khoảng 30 công ty).
Moodle phát triển dựa trên PHP (Ngôn ngữ được dùng bởi các công ty Web lớn như Yahoo, Flickr, Baidu, Digg, CNET) có thể mở rộng từ một lớp học nhỏ đến các trường đại học lớn trên 50 000 sinh viên (ví dụ đại học Open PolyTechnique của Newzealand hoặc sắp tới đây là đại học mở Anh - Open University of UK, trường đại học cung cấp đào tạo từ xa lớn nhất châu Âu, và đại học mở Canada, Athabasca University). Bạn có thể dùng Moodle với các database mã nguồn mở như MySQL hoặc PostgreSQL. Phiên bản 1.7 sẽ hỗ trợ thêm các database thương mại như Oracle, Microsoft SQL để các bạn có thêm nhiều cơ hội lựa chọn.
Để biết mọi người nghĩ gì về Moodle, các nghiên cứu về Moodle, cũng như so sánh Moodle với các hệ thống khác, bạn đọc tiếp tại: http://moodle.org/buzz/. Về tương lai phát triển của Moodle, bạn xem tại: http://docs.moodle.org/en/Roadmap
Một câu hỏi đặt ra là Moodle trị giá bao nhiêu? Một thống kê thú vị tại http://www.ohloh.net/projects/25 kết luận Moodle đáng giá 20 triệu USD nếu bạn phải xây dựng một hệ thống tương tự như thế từ đầu
Đỗ Lộc:
Tại sao phải dùng moodle
Vấn đề nay hơi thú vị, có rất nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới họ đã dùng BlackBoard hoặc WebCT. Sau khi moodle ra đời thì lại chuyển sang dùng moodle, BlackBoard và WebCT là hai LMS/LCMS ra đời sớm và chiếm thị phần lớn nhất trên thế giới trong số các hệ thống thương mại. Một thống kê tham khảo về thị phần các LMS/LCMS chính Moodle+BlackCT+Sakai có tại http://www.zacker.org/higher-ed-lms-market-penetration-moodle-vs-blackboard-vs-sakai
Những lý do khiến người ta sử dụng moodle ngày càng nhiều
a/ Điều đầu tiên phải nói là moodle giúp các trường đại học không phụ thuộc vào một công ty phần mềm đóng.
Đơn cử ta có thể lấy nột vài ví dụ
Ví dụ 1
LMS (Learning Management System) đóng có thể ảnh hưởng rất nhiều đến một trường đại học cho đến mức mà bạn không thể quay lại. Giáo viên thì quá quen với nó. Sinh viên và các nhân viên khác cũng vậy. Đến lúc này công ty bán LMS nhận ra sự phụ thuộc của bạn vào sản phẩm này và bắt đầu tăng giá, hỗ trợ ít hơn, bắt bạn mua các sản phẩm bổ sung và bạn bắt buộc phải làm theo, không còn sự lựa chọn nào khác. như vậy có thể nói là một điều vô cùng khó khăn
Ví dụ 2
Nếu bạn cần hỗ trợ, bạn phải dựa vào công ty bán sản phẩm cho bạn nâng cấp và chỉnh sửa vì bạn không thể có mã nguồn trong tay. Nhưng đối với mã nguồn mở, bạn có thể tự sửa hoặc trả cho các công ty khác hỗ trợ bạn, thường thì rẽ hơn vì bạn có thể chọn được nhiều công ty. Hơn nữa, nếu bạn không hài lòng với một công ty, bạn có thể tìm các công ty khác để hỗ trợ. Moodle có khoảng 30 công ty có thể hỗ trợ bạn. Hơn nữa, nếu bạn có những chuyên gia tin học tốt thì bạn không cần thuê bên ngoài
b/ Moodle được hỗ trợ tích cực bởi những người làm trong lĩnh vực giáo dục
Họ là những người có trình độ IT rất tốt và có kinh nghiệm trong giảng dạy. Họ chính là những người dùng LMS và có thể hỗ trợ bạn.
c/ Chất lượng
Nhiều khi phần mềm mã nguồn mở, như trong trường hợp của Moodle và Sakai, bằng hoặc tốt hơn Blackboard /WebCT trong các khía cạnh. Bởi cộng đồng các nhà giáo dục, chuyên gia máy tính, và các chuyên gia thiết kế giảng dạy chính là những người phát triển Moodle, và kết quả là bạn có trong tay một sản phẩm đáp ứng tốt các yêu cầu người dùng. Ví dụ, Moodle có các tính năng hướng tới giáo dục vì chúng được xây dựng bởi những người làm trong lĩnh vực giáo dục.
c/ Hỗ trợ
Các mức độ hỗ trợ cho một phần mềm mã nguồn mở tốt thật đáng kinh ngạc. Cộng đồng, nhân viên IT có sẵn, hoặc các công ty bên ngoài là các lựa chọn cho bạn.
d/ Tùy biến được (Customizable)
Moodle có thể tùy biến và cấu hình mềm dẻo một cách đáng ngạc nhiên. Mã mở được đưa ra công khai do đó bạn có thể tùy biến hệ thống để phù hợp với các yêu cầu đào tạo và thuê lâp trình viên làm chuyện đó thay cho bạn.
Ví dụ, nếu trường đại học muốn xây dựng một module XYZ thì họ có thể tự phát triển bên trong hoặc gửi yêu cầu đó lên cộng đồng mã nguồn mở và một người lập trình viên có thể xây dựng module đó miễn phí . Ngay cả khi bạn không phải là một lập trình viên, bạn vẫn có thể cài đặt Moodle trên một server , tạo các khóa học, và cài thêm các module bổ sung, và gỡ các rắc rối với sự trợ giúp của cộng đồng Moodle.
e/ Sự tự do:
Bạn có nhiều sự lựa chọn hơn và không bao giờ có cảm giác là ‘nô lệ’ của phần mềm
f/ Ảnh hưởng trên toàn thế giới
Bởi vì Moodle có một cộng đồng lớn như vậy, phần mềm được dịch ra hơn 75 ngôn ngữ và được sử dụng tại 160 nước khác nhau. Bạn rất ít khi tìm được một phần mềm đóng thông dụng được dịch ra hơn 10 ngôn ngữ khác nhau
h/ Mã nguồn mổ sử dụng miễn phí
Mã nguồn mở dùng mô hình kinh doanh khác với mô hình mà chúng ta từng biết. Ví dụ, bạn có thể mở một công ty tư vấn Moodle và thuê một lập trình viên để phát triển phần mềm và chia sẻ nó miễn phí cho cộng đồng bởi vì càng có nhiều người dùng nó công ty của bạn càng có cơ hội kinh doanh
Và một điều vô cùng quan trọng nữa là giúp các bạn sinh viên khoa máy tính có thể tham gia dự án phát triển một module cho LMS Moodle, Sinh viên có thể xây dưng module cho LMS Moodle và chia sẻ nó cho cộng đồng toàn cầu. Nếu module đủ tốt, nó sẽ được tích hợp vào phiên bản mới Moodle thường được phát hành 6 tháng một lần. Bởi vì Moodle thiết kế dựa trên module, xây dựng module mới cho Moodle khá đơn giản nếu bạn biết PHP. (Ví dụ như sinh viên Phạm Minh Đức - Đại học BK Hà Nội đã phát triển thành công module SCORM 2004, sau đó đóng góp cho cộng đồng Moodle).
Vui một tý onion-head61 onion-head44
Bạn có thể phỏng vấn Martin Dougiamous,người sáng lập Moodle và hiện tại vẫn đang là người điều hành chính Moodle, về tương lai của Moodle tại http://technosavvy.org/?p=329.
Nguồn: http://www.toanangiang.net/mysite/forum/index.php?topic=171.0;wap2
Đào tạo trực tuyến tại VN: Đã có những giải pháp ứng dụng hiệu quả
(HNMO) – Theo đánh giá của các chuyên gia, những hạn chế khi triển khai E-learning ở Việt Nam trong thời gian qua thể hiện rõ ở các yếu tố như đường truyền Internet – hạ tầng về CNTT (máy tính, máy chủ…) – nhận thức, ứng dụng về CNTT – phương pháp giảng dạy truyền thống, kém hiệu quả… Tuy nhiên, khi liên minh ba bên VDC – ITPRO - NCS Tech. “bắt tay” và đưa ra giải pháp tổng thể, những trở ngại này không còn là vấn đề lớn.
Hôm nay (27/11), tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo Quốc tế về Ứng dụng Giải pháp Đào tạo Trực tuyến (elearning) tại Việt Nam do ba đơn vị: VDC, NCS Tech., ITPRO đồng phối hợp tổ chức. Trước đó, vào đầu tháng 11, Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC), Công ty Cổ phần Phát triển và Chuyển giao Công nghệ toàn cầu (ITPRO) và Công ty Cổ phần Công nghệ NCS thuộc NCS Solutions Corp. cũng đã ký kết thỏa thuận hợp tác nhằm mục tiêu: “Kết hợp các sản phẩm, dịch vụ của mỗi bên trở thành một giải pháp tổng thể về Elearning tốt nhất, đầy đủ nhất tại Việt Nam”.
Tham gia hội thảo có đại diện Bộ Giáo dục & Đào tạo, các CEO của khối Ngân hàng và hiệu trưởng các trường đã ứng dụng thành công Elearning tại Việt Nam, các đơn vị doanh nghiệp trực tuyến uy tín hàng đầu Việt Nam và thế giới về nội dung như: Skillsoft, Intuition’, GlobalEnglish…
Chủ đề chính của hội thảo này là cùng hợp tác đưa ra giải pháp đào tạo trực tuyến tổng thể tại Việt Nam có tỷ lệ ứng dụng cao nhất. Theo đó, ba công ty đã cùng đưa ra giải pháp đào tạo tổng thể về Elearning bên cạnh mục đích lắng nghe và tư vấn về giải pháp đào tạo ưu việt nhất nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội.
Các giải pháp tổng thể được đưa ra tại hội thảo bao gồm: LMS (Hệ thống quản lý đào tạo) - iLCBuilder (Công cụ tạo bài giảng, làm nhiệm vụ thu thập hoặc biên soạn tài liệu để tạo nên một bài giảng điện tử) - Imitor (Công cụ mô phỏng phần mềm, làm nhiệm vụ tạo nội dung và mô phỏng lại hoạt động của một chương trình phần mềm nào đó. Ở đó, phần mô phỏng sẽ là một bài học hết sức sinh động và hiệu quả) - Trainware (Hệ thống quản lý đào tạo trực tuyến, làm nhiệm vụ quản lý tất cả các thông tin liên quan đến quá trình đào tạo như: lớp học, khoá học, nội dung và chương trình giảng dạy, quản lý học viên, giảng viên…).
Ông Vũ Hoàng Liên, CEO của công ty VDC cho biết: “VDC là đơn vị duy nhất cung cấp dịch vụ trên khắp 64/64 tỉnh thành với thị phần thuê bao chiếm hơn 54%, cổng Internet quốc tế lớn nhất, chiếm 2/3 dung lượng kết nối Internet quốc tế và liên tục được bình chọn là ISP tốt nhất nhiều năm liền từ PC World và IDG. Chúng tôi tin tưởng rằng, liên minh 3 bên: VDC-ITRO-NCS cùng các đối tác nội dung uy tín trên thế giới với giải pháp tổng thể đào tạo trực tuyến triển khai tại Việt Nam được trình bày tại hội thảo sẽ thành công tốt đẹp”.
Thực tế tại Việt Nam, việc dạy và học, đặc biệt là tại bậc đại học đã nhận được không ít sự phê phán là đào tạo một chiều hay truyền đạt thiếu sinh động hiệu quả, đào tạo theo xu hướng tập trung tại chỗ. Giáo trình bài giảng và cách thức giảng dạy theo hướng truyền thống và thiếu đổi mới. Chất lượng đào tạo chưa đồng đều, có sự chênh lệch giữa thành phố và các vùng nông thôn, sự tương tác giữa giảng dạy và học còn thấp, không kịp thời… Trong khi trên thế giới, phương pháp giảng dạy trực tuyến đã rất phát triển kể cả về nội dung giảng dạy cũng như cách thức trao đổi thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Elearning đã ra đời với những ưu điểm như: khắc phục những khó khăn về địa lý; khắc phục những khó khăn về hoàn cảnh công tác, gia đình, sức khỏe,.. tiết kiệm chi phí đào tạo; khắc phục những giới hạn về mặt giao tiếp trong phương pháp đào tạo từ xa truyền thống, xây dựng các chương trình học tiên tiến ngang tầm thế giới…
Tham luận tại hội thảo, ông Đỗ Xuân Thọ - Chủ tịch Hội Tin Học Việt Nam, TGĐ của ITPRO cho biết: “Là đơn vị hoạt động trong lĩnh vực đào tạo và chuyển giao công nghệ thông tin và truyền thông, ITPRO rất quan tâm đến các chương trình ELearning. Kết hợp với VDC, NCS Tech. chúng tôi mong muốn mang đến một mô hình đào tạo với nội dung theo chuẩn mực quốc tế của các hãng công nghệ danh tiếng trên thế giới như Juniper, Microsoft, Cisco, EC-Council… ngay tại Việt Nam, giúp học viên có khả năng làm chủ và sáng tạo các công nghệ mới nhất, mạnh nhất”.
Tham gia liên minh với vai trò là cung cấp phần mềm Elearning tạo thành giải pháp tổng thể bên cạnh đường truyền của VDC, chương trình đào tạo của ITPRO cùng các đối tác nội dung khác, với kinh nghiệm kinh doanh các sản phẩm về Elearning tại thị trường quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản rất thành công; Ông Đào Xuân Ánh – CTHĐQT kiêm TGĐ Tập đoàn NCS cho biết: “Hiện nay, chúng tôi cũng đã cung cấp sản phẩm Elearning cho một số đơn vị lớn như: Microsoft Việt Nam, Agribank, VMS MobiFone, Học viện Bưu chính Viễn thông, khoa Quản trị kinh doanh – Đại học Quốc gia Hà Nội… Được ứng dụng sản phẩm Elearning đã thành công trên thị trường nước ngoài, nay được triển khai rộng khắp tại đất nước của mình là một vinh dự lớn của chúng tôi.”
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ hội thảo, các đối tác nội dung cũng tham gia trình bày tham luận và đưa ra các giải pháp ứng dụng kết hợp Elearning tại Việt Nam. Đó là, ITPRO với giải pháp đào tạo kết hợp nâng cao hiểu quả đào tạo các chương trình CNTT; Skillsoft đưa ra các chương trình đào tạo và kinh nghiệm triển khai E-Learning trên thế giới; GlobalEnglish với giải pháp đào tạo trực tuyến các chương trình Tiếng Anh và các khuyến nghị ứng dụng tại Việt Nam; Intuition’ với giải pháp đào tạo kết hợp nâng cao hiệu quả đào tạo ngành Tài Chính - Ngân hàng. Đại diện ngân hàng Agribank, ông Nguyễn Thuận Phong cũng trình bày tham luận về việc ứng dụng thành công giải pháp đào tạo trực tuyến của NCS trong việc đào tạo hệ thống CORE BANKING của Ngân hàng.
Cũng trong hội thảo, ông Tăng Văn Khánh, Giám đốc Công ty Cổ phần Phát triển Năng lực Tổ chức (OCD) đã giới thiệu Chương trình Đào tạo Quản lý Trực tuyến (OMT) do OCD thực hiện với sự hỗ trợ của Chương trình Hỗ trợ Cạnh tranh Toàn cầu (GCF). Chương trình sẽ được xây dựng theo hướng đào tạo kết hợp giữa elearning và đào tạo trên lớp nhằm tận dụng được lợi thế của cả hai phương thức này và đảm bảo tính tương tác cao cho các khóa học. Chương trình trước hết sẽ hướng tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) xuất khẩu, sau đó sẽ mở rộng cho các loại hình doanh nghiệp khác.
Hội thảo quốc tế đã diễn ra thành công với những đề xuất, giải pháp đưa ra được đánh giá tốt và phù hợp với điều kiện thực tế ở VN nhằm đạt tới việc ứng dụng có hiệu quả nhất. Với những thuận lợi về phát triển cơ sở hạ tầng, nhận thức và sử dụng CNTT của con người đã cải thiện rõ rệt, các chuyên gia nhận định, Elearning tại VN sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới.
Sources: www.omt.vn
Elearning - sức sống mới trên đất Hàn
1-…Bắt đầu từ ông Lee Sang-ki, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Nhà báo châu Á (AJA), chủ biên nhật báo Hankyoreh. 5 năm trước đây, cũng vào tháng 12, một nhóm nhà báo Hankyoreh đến Việt Nam và tham gia chương trình “Góp phần xoa dịu nỗi đau da cam”.
Lần này, đến Hàn Quốc, nhờ ông Lee tôi có dịp tham quan Bảo tàng quốc gia Hàn Quốc đồ sộ. Bảo tàng này có tổng cộng 64 chương trình giáo dục về lịch sử, truyền thống và văn hóa; cung cấp một nền tảng hiểu biết suốt đời cho mọi người, từ thiếu niên cho đến những công dân lớn tuổi, người có chức quyền. Cũng nhờ ông Lee, tôi được nghe nói đến một nhân vật đang gây chú ý mạnh mẽ trong dư luận Hàn Quốc. Đó là ông Sohn Joo-eun, CEO của Công ty Megastudy, quen biết với AJA. Trước kế hoạch hàng tỷ đô la mà xứ sở kim chi rót vào để phát triển internet gấp 10 lần vào năm 2014, theo ông Sohn, Hàn Quốc sẽ trở thành một tiêu điểm về xu hướng giáo dục mới để thế giới nhìn vào.
“Các trường học (offline) sẽ chỉ đóng vai trò bổ sung cho giáo dục trực tuyến (online, e-learning). Học sinh đi đến trường, có lẽ một tuần một lần thôi, chỉ để hoạt động nhóm như thể thao”, ông Sohn từng đưa ra dự báo như thế.
2- Megastudy - “trường học trên mạng” (web school) - trở thành mạng giáo dục trực tuyến lớn nhất tại Hàn Quốc, với doanh số hàng năm lên đến 245 tỷ won (3.500 tỷ đồng Việt Nam). Lượng học sinh theo học các cấp được phân ra: trung học phổ thông (www.megastudy.net) với 2,1 triệu người ghi danh, trung học cơ sở (www.mbest.net) với 2 triệu người, tiểu học (www.mjunior.net) với 3,7 triệu người.
Vài thông số trên do ông Jeong Hee-kwang, giám đốc kế hoạch chiến lược – đưa ra, khi tôi ghé trụ sở Megastudy tọa lạc tại cao ốc Deokwon, phía Nam Seoul. Khuôn mặt rạng rỡ của ông Jeong phản ánh một tương lai đang được hoạch định với niềm xác tín về e-learning như “một sức sống giáo dục mới” trong thế kỷ 21.
Một người bạn xứ kim chi hỏi tôi: “Ở đâu, một thầy giáo giỏi có thể kiếm được cả triệu đô la trong một năm?”, rồi trả lời luôn: “Megastudy!”. Sở dĩ thu nhập cao ngất ngưởng đến thế, vì tính chất trực tuyến nên một thầy giáo giỏi có thể nhận được một số lượng học sinh không giới hạn và Megastudy chia cho thầy giáo 23% doanh thu cho mỗi lớp mà người thầy ấy giảng dạy. Để được xếp vào danh sách hàng đầu (được công chúng biết đến), các thầy cô phải biết cách gây ấn tượng, vui vẻ, hấp dẫn, biết “tiếp thị”.
Megastudy từng tổ chức những cuộc họp mặt đông cả 10.000 người, tại các khu vực rộng lớn. Đám đông vỗ tay, chen chúc xin chữ ký. Cứ ngỡ người đứng trên sân khấu là siêu sao nhạc pop, nhạc rap nhưng… hóa ra đó là những thầy giáo nổi tiếng. Một số giáo viên còn đi phẫu thuật thẩm mỹ và thuê nghệ sĩ trang điểm để xây dựng hình ảnh bắt mắt trước công chúng, tôi được nghe kể vậy.
Trong quốc gia này, địa vị và thu nhập của một người dân Hàn Quốc ở tuổi 60 phần lớn được quyết định bởi tên tuổi của trường đại học mà họ bước chân vào năm 18 tuổi, do đó chi tiêu hàng đầu của các bậc cha mẹ là đảm bảo rằng con cái của họ sẽ vào một trường đại học ưu tú. Điều đó đòi hỏi một điểm số cao trong kỳ thi tuyển sinh đại học.
Thế nhưng… muốn đạt điểm cao nào phải dễ, mà thông thường được quyết định bởi việc gia đình có khả năng bỏ tiền ra thuê gia sư hoặc dốc tiền cho con em đi học thêm hay không. Những “hàn sĩ” - có tư chất thông minh nhưng xuất thân từ gia đình nghèo túng, không đào đâu ra học phí cao để ghi danh tại các “lò” luyện thi – trong thực tế càng ngày càng khó để vươn lên vị trí cao trong xã hội.
Thực tế xứ Hàn, tôi chạnh nghĩ, có lẽ cũng không khác lắm với Việt Nam. Học hối hả, học thêm lu bù đang trở thành ám ảnh trong nhiều gia đình. Giấc mơ “vượt vũ môn, cá hóa rồng” cũng rất đỗi khó khăn nếu cắp sách đến trường với bàn tay trắng.
Megastudy thành công ở cấp độ “mega - cực khủng”, vì khai thác trúng tâm lý lo âu của các gia đình Hàn Quốc. Người sáng lập mạng giáo dục trực tuyến Megastudy vào năm 2000 là giáo viên vật lý Kim Sung-jae, từng là chuyên gia luyện thi đại học mát tay cho con em tầng lớp thượng lưu với thu nhập hàng năm lên tới 720 triệu won (10 tỷ đồng Việt Nam). “Trước đây, công việc của tôi là giúp nhà giàu đưa con cái họ lên nấc thang học vấn trong khi nhấn chìm cơ hội của những học sinh khác vì không có điều kiện tài chính, vô tình làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục”, Kim Sung-jae đã nói như vậy.
3- Với học phí mỗi khóa trung bình 40.000 - 50.000 won (tương đương 570.000 - 710.000 đồng), chỉ bằng 1/5 so với ở các lò luyện thi, học viên có thể xem bài giảng theo yêu cầu dưới dạng video (VOD, “Video on demand”) trên máy tính ở nhà, hoặc tải bài giảng vào các thiết bị cầm tay để xem đi xem lại mọi lúc mọi nơi.
Theo lời ông Jeong Hee-kwang, Megastudy đã cung cấp đến 2.500 khóa học, được “biến tấu” linh động tùy theo trình độ và yêu cầu của người học, mỗi khóa được tạo thành từ 10-20 bài giảng. Các ngành học quy định gồm có tiếng Hàn, tiếng Anh, toán học; các ngành học nhiệm ý được chia ra: khoa học nhân văn (11 môn), khoa học tự nhiên (8 môn). Học sinh phổ thông ở Hàn Quốc nhận được sự linh hoạt mà Megastudy mang lại, vì các em không phải mỗi ngày ngồi hàng giờ ở các trung tâm luyện thi, mà chọn ra những môn học cần trau dồi trên mạng; hoặc những học sinh ở tỉnh lẻ vẫn có thể xem các bài giảng của những giáo viên ưu tú nhất của thủ đô.
Giao tiếp trên mạng liệu có “ổn” khi nhìn dưới góc độ tâm lý sư phạm? Nói gì thì nói, học sinh ít chú tâm vào những khóa trực tuyến (online) so với lớp học thực (offline), vì ở lớp học sinh đối mặt với thầy giáo bằng xương bằng thịt. Trong thực tế, Megastudy còn có một hệ thống trường, viện (offline) đặt tại Kangnam, Kangbuk, Seocho, Noryangjin, Namyangju, Shinchon và Kwangju. Bài giảng trong lớp được ghi hình, sau đó tải lên web. Nhưng hệ thống trường offline chỉ chiếm 26% trong tổng doanh thu của Megastudy.
Còn một vấn đề khác mà giới giáo dục bên xứ sở kim chi đưa ra: việc học trực tuyến liệu có nhồi thêm áp lực vào trong thời khóa biểu của học sinh vốn đã “căng như dây đàn”? Câu trả lời từ ông Sohn Joo-eun là “nghị lực - được minh chứng bởi những người Hàn Quốc học như điên – đã giúp cho nền kinh tế quốc dân phát triển”.
Giáo dục trực tuyến không phải là toàn bộ nền giáo dục của một đất nước, nhưng nó đem lại một sức sống mới. E-learning còn được chia sẻ từ cấp quốc gia. Chính phủ Hàn Quốc xem web như một công cụ để hạ nhiệt chi phí dạy kèm tại các trung tâm luyện thi, tái lập bình đẳng trong giáo dục. EBS, kênh truyền hình học đường của chính phủ, mở trang web cung cấp các bài giảng ôn thi đại học miễn phí, cho đến nay thu hút trên 3 triệu thành viên.
…Trên chuyến bay đêm rời Seoul về lại Việt Nam, câu hỏi cứ thao thức mãi trong tôi: bài học Hàn Quốc sẽ gợi ra điều gì cho ngành giáo dục nước ta?
Theo SGGP
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)